Cách nổ dưới nước Thùng nổ sâu

Chiếc USS Agerholm (DD-826) phóng tên lửa mang loại depth charge ASROC có trang bị đầu đạn hạt nhân trong cuộc thử nghiệm Swordfish vào 1962

Để có một sức nổ mạnh depth charge phải trải qua rất nhiều phản ứng hóa học để có thể tạo ra sóng chấn động có tốc độ 8.000 m/s. Các khí nén được tạo ra bởi phản ứng trong một thời gian rất ngắn khi kích nổ khối thuốc nổ rắn tạo ra một áp lực rất cao. Chính áp lực này là nguồn cho mọi sự công phá nó tỉ lệ thuận với sức nổ và tầm ảnh hưởng của tốc độ sóng chấn động nổ. Các khí nén mà depth charge tạo ra chiếm chỗ của nước rất nhanh làm tăng áp lực nước ở xung quanh nó và tạo ra một sóng chấn động truyền trong nước. Sự khác biệt về độ hòa tan của không khí trong nước sẽ ảnh hưởng đến sức nổ khi các khí nén được giải phóng có thể sẽ tan vào trong nước không tạo ra sóng chấn động mạnh như mong muốn phần còn lại sẽ nổi lên mặt nước. Trừ khi các depth charge phát nổ ở độ sau thích hợp khi vụ nổ mà nó tạo ra hoàn toàn cách li với không khí, các khí nén đẩy nước ra khỏi một vùng mà chúng chiếm khi nổ khiến cho vùng đó có áp suất thấp hơn xung quanh nếu nó chạm vào không khí thì ngay lập tức sức ép của nước sẽ đẩy toàn bộ sức nổ lên phía trên mặt nước chứ không tạo ra sóng chấn động mạnh, dù vậy nó sẽ hiệu quả nếu tạo các hiệu ứng nổ cho phim ảnh với cảnh một cột nước cao tung lên từ dưới nước. Còn trên thực tế khi depth charge phát nổ nó chỉ có thể làm cho mặt nước gồ lên một tí rồi phẳng trở lại và sau đó là các bong bóng nổi lên. Còn khi các khí nén hoàn toàn không thể chạm vào không khí thì áp suất nước xung quanh sẽ đẩy nước trở về chỗ cũ vì một phần hay hầu hết khí nén sẽ tan vào nước tạo nên một sóng chấn động thứ hai tuy yếu hơn sóng chấn động chính nhưng vẫn hiệu quả.

Các depth charge rất lớn tính luôn các vũ khí hạt nhân nếu nổ ở độ sâu đủ có thể tạo ra nhiều sóng chấn động rất mạnh. Depth charge có sức nổ cực lớn có thể tạo ra sóng chấn động rất xa có thể dội lại từ đáy biển lên và/hay từ trên mặt nước xuống có thể tạo thành hội tụ khuếch đại sóng chấn động cực kỳ nguy hiểm cho bất cứ thứ gì nằm trong nó. Tất cả các tàu ngầm hay tàu nổi có thể bị đánh chìm nếu nó nằm trong phạm vi ảnh hưởng của loại bom này, kể cả chính tàu đã phóng bom nếu nó không kịp chạy ra khỏi vùng nguy hiểm cũng sẽ bị đánh chìm bởi chính quả bom mà nó phóng đi.

Các thiệt hại do những vụ nổ dưới nước xảy ra cho các tàu ngầm tạo ra bởi hai loại sóng chấn động chính và phụ. Sóng chấn động chính sẽ xảy ra khi depth charge phát nổ, nó cũng có thể ảnh hưởng đến người và các thiết bị của tàu ngầm nếu nó nổ ở khoảng cách đủ gần. sóng cấn động thứ hai là do sức ép của nước đẩy nước trở về chỗ cũ kéo mọi thứ xung quanh vào nó cũng có áp suất đáng kể và khi khoảng không đó đầy thì nước trong đó theo quán tính sẽ va vào nhau và bị đẩy ra tạo ra thêm một sóng chấn động nữa nhưng yếu hơn cũng như áp suất trong vùng đó giảm xuống và cứ thế cho đến khi các sóng chấn động yếu dần đến mất hẳn chính hàng loạt sóng chấn động này sẽ gây ra thảm họa cho vỏ tàu của tàu ngầm. Đã có các cuộc thử nghiệm cho thấy trung bình có đến mười sáu sóng chấn động được tạo ra bởi một quả depth charge và số lượng còn tùy vào sức nổ của bom. Các sóng chấn động phụ này còn được gia tăng bởi những vụ nổ của các depth charge được thả xuống sau nó gây ra hàng loạt chấn động xung quanh thân tàu ngầm. Đó là lý do tại sao các depth charge luôn được thả ít nhất là một cặp và theo các độ sâu khác nhau.

Tầm sát thương của depth charge tủy thuộc vào khối lượng thuốc nổ mà nó được nhét vào và sức chịu đựng của vỏ tàu ngầm. Với một quả depth charge nạp 100 kg thuốc nổ TNT (4 MJ) bình thường chỉ có tầm sát thương 3–4 m với tàu ngầm có trọng tải trung bình 1000 tấn, khi sóng chấn động gây thiệt hại nhẹ (tàu ngầm không thể bị đánh chìm nhưng có thể bị đẩy ra khỏi đường đi) là 8–10 m. Với một quả nhét đẩy thuốc nổ mạnh cũng chỉ có thể tăng tầm sát thương lên thêm vài mét vì tính chất tỏa sóng chấn động trong nước sẽ đi theo tất cả mọi hướng chứ không như trên mặt đất sóng chấn động sẽ bị dội bởi đất cứng làm tập trung chấn động thẳng lên trên gây sát thương rất lớn còn dưới nước thì không. Các depth charge có hiệu quả càng cao với tàu ngầm càng lớn và càng thấp với tàu ngầm càng nhỏ vì tính khí động học của chúng sẽ cho các sóng chấn động đi qua mà chằng gây thiệt hại gì. Lấy ví dụ nếu tàu ngầm loại nhỏ có vỏ tàu làm bằng Titan thì chỉ có thể đánh chìm nó nếu một quả depth charge đánh trúng thẳng vào nó còn nếu không cùng lắm chỉ có thể khiến nó bị chấn động làm chết máy (và có thể tự khởi động lại được).